Minh bạch nguồn thải trong lưu vực hệ thống sông Đồng Nai

De an bao ve moi truong lưu vực hệ thống sông Đồng Nai và sông Sài Gòn đã thu được những kết quả nhất định sau 6 năm triển khai. Nhận thức của các địa phương và ý thức cộng đồng về trách nhiệm bảo vệ môi trường trong toàn lưu vực được nâng cao rõ rệt, tình hình ô nhiễm môi trường nước trong lưu vực từng bước được cải thiện.
Mới đây, 11 tỉnh, thành thuộc Ủy ban bảo vệ môi trường lưu vực hệ thống sông Đồng Nai đã đi đến thống nhất tiến tới công khai minh bạch tất cả các nguồn thải để tăng cường kiểm soát chéo cũng như đề cao việc thực hiện nhiệm vụ trong quản lý moi truong xanh
Thời gian qua, nhiều tỉnh, thành đã kê khai, thống kê các nguồn thải khá tốt, cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin các nguồn thải, góp phần kiểm soát sự ô nhiễm. Trong đó, sở TN & MT tỉnh Bình Dương vừa công khai 3.600 nguồn thải là các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp và khu công nghiệp có nguy cơ cao gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến các lưu vực sông.
Tuy nhiên vẫn còn hàng trăm, hàng ngàn nguồn thải chưa được điều tra, thống kê đầy đủ và chưa thông tin minh bạch để có biện pháp quản lý hiệu quả hơn. Vì thế, vẫn còn ở một số vùng, khu vực nổi lên vấn nạn ô nhiễm dẫn đến hệ lụy của lưu vực hệ thống sông đang bị đe dọa.


Kết quả quan trắc trong năm 2013 và những tháng đầu năm 2014 cho thấy môi trường nước sông Đồng Nai vẫn có dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ; giá trị ôxy hóa, nhu cầu ôxy hóa các chất hữu cơ tại sông Đồng Nai hầu hết vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, ảnh hưởng đến nhiều nhà máy nước cung cấp nước sinh hoạt cho hàng triệu dân; dấu hiệu ô nhiễm về giá trị BOD5 và COD. Ước tính mỗi ngày, các khu đô thị, doanh nghiệp dọc lưu vực hệ thống sông Đồng Nai thải ra khoảng gần 5 triệu m3 nước thải sinh hoạt và công nghiệp với tổng lượng BOD 600.000kg, 1,1 triệu kg COD, 200.000kg Nitơ, 760.000kg SS…
Cụ thể, tại bến phà thị trấn Uyên Hưng (Bình Dương), cầu Rạch Cát, bến đò Long Kiển, bến phà Cát Lái (TP HCM) có giá trị BOD5 cao hơn so với các điểm khác , nguyên nhân trực tiếp có thể do nước thải sinh hoạt của khu dân cư xung quanh hoặc từ hoạt động nuôi cá bè
Trong khi đó, chất lượng nước sông Sài Gòn cũng đã bị ô nhiễm hữu cơ, ô nhiễm vi sinh và có xu hướng tăng dần về phía hạ lưu. Điển hình là khu vực sông Sài Gòn đoạn qua Thành phố Hồ Chí Minh giá trị BOD5 vượt quy chuẩn Việt Nam (loại A1) từ 2-3 lần. Tại khu vực thượng nguồn, chất lượng nước không có sự biến động lớn, nhưng tại vị trí cầu Tống Lê Chân, cửa sông Thị Tính (đoạn tỉnh Bình Dương) giá trị BOD5 và COD khá cao có thể do tiếp nhận nước thải sinh hoạt không qua xử lý của khu vực dân cư và nước thải của các KCN Mỹ Phước – Bình Dương.

minh-bach-nguon-thai-trong-luu-vuc-song-dong-nai

Ông Lê Thanh Cung, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương, Chủ tịch Ủy ban bảo vệ môi trường lưu vực hệ thống sông Đồng Nai cho biết, tại kỳ họp thứ bảy của Ủy ban, 11 tỉnh, thành phố đã thống nhất lập kế hoạch đẩy nhanh đề án thống kê, xây dựng cơ sở dữ liệu về nguồn thải – nước thải, đề xuất các kế hoạch quản lý, xử lý hiệu quả, trong đó trọng tâm là việc điều tra tất cả các nguồn xả thải để minh bạch thông tin giữa các tỉnh, thành phố nằm trong lưu vực hệ thống sông Đồng Nai vào thời gian tới. Các địa phương tiếp tục triển khai Đề án năm 2014 và 2015 về tập trung đầu tư các công trình thu gom, xử lý chất thải đô thị, xây dựng kế hoạch quản lý, xử lý các nguồn thải lỏng trên toàn lưu vực hệ thống sông Đồng Nai…
Các tỉnh, thành phố đã kiến nghị chung cần có cơ chế tài chính thực hiện có hiệu quả các dự án về bảo vệ môi trường; lồng ghép vào chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường. Xây dựng cơ sở dữ liệu và hệ thống thông tin môi trường các nguồn thải có ảnh hưởng lưu vực hệ thống sông Đồng Nai để công khai minh bạch tất cả các nguồn thải liên vùng giữa các tỉnh, thành phố nhằm có biện pháp quản lý chéo liên vùng trong khu vực.
Mục tiêu đến năm 2015 và những năm tiếp theo phải tiến tới đạt chỉ số về hiện trạng xử lý môi trường trên địa bàn. Cụ thể: xử lý triệt để 90 – 95% các cơ sở gây ô nhiễm môi trường; các cơ sở sản xuất mới áp dụng công nghệ sạch hoặc được trang bị các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải đạt 100%. 100% KCN có hệ thống xu ly nuoc thai tập trung. Tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải nguy hại là 100% và 90-99% người dân ở đô thị và nông thôn sử dụng nước sạch

Xem thêm : http://lapduan.vn/minh-bach-nguon-thai-trong-luu-vuc-song-dong-nai.html

0 nhận xét:

Đăng nhận xét